Chép phù điêu

 1.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển 

Từ thời sơ khai của lịch sử loài người, con người đã phát hiện một cách 
ngẫu nhiên những hình tựa như những hoa văn rất  đẹp. Họ đã cảm thụ, sử
dụng và sáng tạo, phát triển thành một 
ngôn ngữ để diễn tả cái đẹp. 
Đầu tiên  đơn giản chỉ hình  ảnh 
của thiên nhiên như  cỏ cây, hoa lá, 
chim thú, cá…được khắc vạch lại lên 
vách hang  động nơi họ trú ngụ. Theo 
sự phát triển của xã hội loài người thì 
những  đường nét trang trí  được cách 
điệu, khái quát trừu tượng cao hơn, có 
giá trị  về phương diện lịch sử và nghệ
thuật như hoa văn trang trí trên trống 
đồng Ngọc Lũ ở Việt Nam ta, rồi về
sau, loại hình trang trí này được tồn tại 
và phát triển mang  đậm sắc thái dân 
tộc, thể hiện ở các công trình như  lăng 
mộ, đình, chùa…mà chủ yếu là phù điêu với hai chất liệu chính là gỗ và đá. 
   H45.   Chạm  nổi  trên   tráp   bằng    
xương. Ai Cập cổ đại (trên).
H46. Con bò. Khắc và vẽ trong một 
hang động tại Lascaux ở Pháp. 
Khoảng 15.000-10.000 tCN (trái).                                                                                            
H47. Hình trên: Đúc nổi đồng trên Cửu đỉnh, Ngọ môn. 
H48. Cúc hóa Rồng. Chạm gỗ trên bậu cửa Hiển Lâm 
Các. Ngọ môn. 
1.2. Các loại phù điêu: Có 3 loại phù điêu: 
+ Phù điêu lồi thấp.  
+ Phù điêu lồi. 
+ Phù  điêu cực lồi (khối gần như
tượng tròn). 
H49. Phù điêu lồi: Indra cưỡi coi ba đầu Airavata.            H50. Phù điêu lồi thấp: Michelangelo.    
  Banteay Srei. Campuchia. Gạch nung. T.kỷ 10.                        Đức Mẹ bên cẫu thang.                                                                           
H51. Phù  điêu cực lồi: Vũ  nữ Apsara, Trà Kiệu, 
Champa. Đá. Khoảng thế kỷ 10.
1.3. Đặc điểm của phù điêu 
- Nếu tượng tròn là hình khối được thể
hiện trong không gian ba chiều, hình khối 
thật thì hình khối của phù  điêu diễn tả
không gian ba chiều trên bề  mặt phẳng, 
khối không thật mà cảm giác (khối  ăn 
gian), và hình khối giàu chất trang trí. 
- Bố  cục của phù  điêu  được sắp xếp 
bằng những mảng hình có chính có phụ
trong một mảng hình học (bố  cục hình 
vuông, tròn, chữ nhật…) 
- Trong  điêu khắc thì bố  cục có  ưu 
điểm là thể hiện được nhiều thứ trong đó 
như núi non, sông biển, cỏ cây, hoa lá, 
sinh hoạt xã hội (giống như  vẽ  mỹ thuật). 
Còn tượng tròn thì bị hạn chế về mặt này. 
- Không gian trong phù điêu được diễn tả theo từng lớp, lớp trước ở  gần, 
lớp sau ở xa và cứ theo thứ tự như vậy. 
1.4. Vật liệu làm phù điêu 
Có thể làm với các vật liệu như: Gỗ, đá, thạch cao, đất nung, ximăng, 
hay các kim loại như đồng, nhôm, bạc…Tuy nhiên cần lưu ý đến hai yếu tố
sau: 
- Chọn chất liệu phù hợp với bố cục, nội dung. 
- Chọn vật liệu bền vững, chịu được mưa nắng và thời gian nếu làm 
phù điêu để ngoài trời. 
2. CÁCH BỐ CỤC PHÙ ĐIÊU 
Phù điêu trong điêu khắc giống như trang trí trong vẽ  mỹ thuật. Vì thế
khi bố  cục đòi hỏi phải có sự nhịp nhàng về đường nét, phong phú về hình 
khối. Phải có mảng chính, mảng phụ, đồng thời chú ý các mảng đặc, mảng 
trống và cách diễn tả đường nét sao cho thật trang trí. Nếu bố  cục phù điêu 
toàn những mảng đặc, không có mảng trống thì phù điêu trở nên tức, bí rất 
khó chịu. Do đó, các mảng trống, mảng đặc nói trên phải bố trí sao cho vừa 
vặn, cân đối, không bị trống hay bị lốm đốm, vụn vặt.   
Bố  cục phù  điêu có  ưu  điểm mà bố  cục tượng tròn không thể diễn tả
được, ví dụ như phong cảnh.  
3. CÁCH THỂ HIỆN 
3.1. Chuẩn bị vật liệu và dụng cụ
Vật liệu gồm đất sét, bảng gỗ, giá đỡ, nilon. 
+ Một bảng gỗ  tương ứng hoặc to hơn một ít so với kích thước phù 
điêu muốn làm. Riêng  độ dày phải đảm bảo không bị cong vênh hay 
nứt khi đắp đất sét ướt vào.
+ Giá để  bảng gỗ (giống như giá vẽ  mỹ thuật nhưng cần chắc chắn 
hơn vì đất sét khá nặng) và dây thép nhỏ, đinh. 
Dụng cụ tương tự như bài chép đầu tượng. 
3.2. Cách làm 
+ Làm đất: 
Tùy theo phù điêu lớn, nhỏ mà ta có thể giảm lược bớt việc đóng 
đinh cũng như chằng dây thép bởi công dụng chính là giữ đất khỏi bị
sụt, nứt phù điêu. Vì vậy mà phù điêu càng lớn thì càng phải làm cốt 
thật kỹ. 
Đất đã nhào kỹ chuẩn bị từ trước, đắp lên bảng gỗ đã đóng đinh và 
chằng dây thép, rồi dùng dao nặn, thước thẳng và dùi đập đất san bằng. 
chép phù điêu
H52. Cốt làm phù điêu: Mặt cắt dọc và mặt trước (quấn dây thép thưa và dày). 
+ Phác hình lên bảng đất: 
Có hai cách: thứ nhất là vẽ phác hình dáng của mẫu lên bảng đất 
đã san phẳng, rồi dựa trên cơ sở đó mà nặn vào bảng đất rồi hoàn chỉnh 
khối chi tiết. Cách thứ hai là lấy đất đắp đều lên bảng đất đã san phẳng 
bằng phần cao nhất của phù điêu rồi mới vẽ phác hình nét lên, sau đó 
mới dùng dao nhọn cắt bỏ phần đất thừa để hình lộ ra và hoàn chỉnh 
khối chi tiết.  
Cách làm phù điêu cũng giống như nặn tượng tròn, nghiên cứu với 
các khối lớn và giải quyết khối cơ  bản theo từng lớp, từng diện, tạo ra 
sự tương quan cao thấp, trên dưới giữa các mảng khối lớn với nhau. 
Khi đã giải quyết xong toàn bộ khối cơ  bản, mới đẩy sâu vào chi 
tiết trên cơ  sở khối lớn. Lưu ý đặc trưng của khối phù điêu là một khối 
tròn bị ép bẹp mà một phần nằm lẫn trong mặt phẳng nền và phần kia 
thì nhô ra ngoài. Thông thường ở  vị trí gần, trọng tâm thì khối nhô ra 
nhiều, còn những mảng phụ hay chi tiết ở xa thì càng bẹp lại. 
Ngoài việc quan sát mẫu, nhận thức và sự khéo léo của  đôi tay, 
dụng cụ  cũng phải dùng đúng cỡ,  đúng kiểu thì công việc mới thuận 
lợi. 
nặn phù điêu
H53. Mặt cắt bên của phù điêu cho thấy cách giải quyết khối cơ bản và khối chi tiết. 
+ Kiểm tra và chỉnh hình: 
Có thể dùng que đo để kiểm tra lại độ chính xác, rồi chuyển những 
khối ở dạng góc cạnh về đúng với mẫu thật.

TagsChép phù điêu